Nepal, tên đầy đủ là Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal, thủ đô nằm ở Kathmandu, là một quốc gia không giáp biển ở Nam Á, ở chân đồi phía nam dãy Himalaya, phía bắc giáp Trung Quốc, ba mặt còn lại và biên giới Ấn Độ.
Nepal là một đất nước đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa họ, đa ngôn ngữ. Tiếng Nepal là ngôn ngữ quốc gia và tiếng Anh được tầng lớp thượng lưu sử dụng. Nepal có dân số khoảng 29 triệu người. 81% người Nepal theo đạo Hindu, 10% theo đạo Phật, 5% theo đạo Hồi và 4% theo đạo Thiên chúa (nguồn: Ban phát triển trà và cà phê quốc gia Nepal). Đồng tiền chung của Nepal là Rupee Nepal, 1 Rupee Nepal≈0,05 nhân dân tệ.
Bức tranh
Hồ Pokhara 'afwa, Nepal
Khí hậu Nepal cơ bản chỉ có hai mùa, từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau là mùa khô (mùa đông), lượng mưa rất ít, chênh lệch nhiệt độ giữa buổi sáng và buổi tối lớn, khoảng 10 độ C.oCvào buổi sáng, sẽ tăng lên 25oCvào buổi trưa; Mùa mưa (mùa hè) rơi vào từ tháng 4 đến tháng 9. Tháng 4 và tháng 5 đặc biệt oi bức, nhiệt độ cao nhất thường lên tới 36oC. Từ tháng 5, lượng mưa dồi dào, thường xuyên xảy ra lũ lụt.
Nepal là một nước nông nghiệp có nền kinh tế lạc hậu và là một trong những nước kém phát triển nhất thế giới. Kể từ đầu những năm 1990, các chính sách kinh tế tự do, theo định hướng thị trường ít có tác dụng do tình trạng bất ổn chính trị và cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Nước này phụ thuộc rất nhiều vào viện trợ nước ngoài, với 1/4 ngân sách đến từ các khoản viện trợ và cho vay nước ngoài.
Bức tranh
Vườn trà ở Nepal, với đỉnh đuôi cá phía xa
Trung Quốc và Nepal là những nước láng giềng hữu nghị có lịch sử hơn 1.000 năm giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Hòa thượng Pháp Hiển đời Tấn và Huyền Trang đời Đường đã viếng thăm Lâm Tỳ Ni, nơi đản sinh của Đức Phật (nằm ở miền nam Nepal). Vào thời nhà Đường, Công chúa Chuzhen của Ni kết hôn với Songtsan Gambo của Tây Tạng. Vào thời nhà Nguyên, Arniko, một nghệ nhân nổi tiếng người Nepal, đã đến Trung Quốc để giám sát việc xây dựng Chùa Trắng ở Bắc Kinh. Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 1/8/1955, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác hữu nghị giữa Trung Quốc và Nepal không ngừng phát triển với các hoạt động trao đổi cấp cao chặt chẽ. Nepal luôn dành sự ủng hộ vững chắc cho Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến Tây Tạng và Đài Loan. Trung Quốc đã hỗ trợ trong khả năng của mình cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Nepal và hai nước đã duy trì liên lạc và hợp tác lành mạnh trong các vấn đề quốc tế và khu vực.
Lịch sử trà ở Nepal
Lịch sử trà ở Nepal bắt đầu từ những năm 1840. Có nhiều phiên bản về nguồn gốc của cây trà Nepal, nhưng hầu hết các nhà sử học đều đồng ý rằng những cây trà đầu tiên được trồng ở Nepal là món quà của Hoàng đế Trung Quốc tặng Thủ tướng Chung Bahadur Rana vào năm 1842.
Bức tranh
Bahadur Rana (18 tháng 6 năm 1817 — 25 tháng 2 năm 1877) là Thủ tướng Nepal (1846 — 1877). Ông là người sáng lập ra gia tộc Rana dưới triều đại Shah
Vào những năm 1860, Đại tá Gajaraj Singh Thapa, quản lý quận Elam, đã đi tiên phong trong việc trồng chè ở quận Elam.
Năm 1863, đồn điền trà elam được thành lập.
Năm 1878, nhà máy chè đầu tiên được thành lập ở Elam.
Năm 1966, chính phủ Nepal thành lập Tập đoàn Phát triển Chè Nepal.
Năm 1982, Quốc vương Nepal lúc bấy giờ là Birendra Bir Bikram Shah đã tuyên bố năm quận Jhapa Jappa, Ilam Iram, Panchthar Panchetta, Terhathum Drathum và Dhankuta Dankuta ở Khu vực phát triển phía Đông là “Quận Trà Nepal”.
Bức tranh
Birendra Bir Bickram Shah Dev (28 tháng 12 năm 1945 — 1 tháng 6 năm 2001) là vị vua thứ mười của Vương triều Shah của Nepal (1972 — 2001, đăng quang năm 1975).
Bức tranh
Các khu vực được đánh dấu bằng hoa văn trà là năm quận trà của Nepal
Vùng trồng chè ở phía đông Nepal giáp vùng Darjeeling của Ấn Độ và có khí hậu tương tự vùng trồng chè darjeeling. Trà từ vùng này được coi là họ hàng gần của trà Darjeeling, cả về hương vị và mùi thơm.
Năm 1993, Ủy ban Phát triển Chè và Cà phê Quốc gia Nepal được thành lập với tư cách là cơ quan quản lý chè của chính phủ Nepal.
Thực trạng ngành chè ở Nepal
Các đồn điền chè ở Nepal có diện tích khoảng 16.718 ha, sản lượng hàng năm khoảng 16,29 triệu kg, chỉ chiếm 0,4% tổng sản lượng chè của thế giới.
Nepal hiện có khoảng 142 đồn điền chè đã đăng ký, 41 nhà máy chế biến chè lớn, 32 nhà máy chè nhỏ, khoảng 85 hợp tác xã sản xuất chè và 14.898 nông dân trồng chè nhỏ đã đăng ký.
Tiêu thụ trà bình quân đầu người ở Nepal là 350 gram, trung bình một người uống 2,42 cốc mỗi ngày.
Vườn trà Nepal
Chè Nepal chủ yếu được xuất khẩu sang Ấn Độ (90%), Đức (2,8%), Cộng hòa Séc (1,1%), Kazakhstan (0,8%), Hoa Kỳ (0,4%), Canada (0,3%), Pháp (0,3%), Trung Quốc, Vương quốc Anh, Áo, Na Uy, Úc, Đan Mạch, Hà Lan.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2018, với nỗ lực chung của Ủy ban Phát triển Chè và Cà phê Quốc gia Nepal, Bộ Phát triển Nông nghiệp Nepal, Hiệp hội các nhà sản xuất chè Himalaya và các tổ chức liên quan khác, Nepal đã ra mắt nhãn hiệu chè mới và sẽ được in trên nhãn. về các gói trà Nepal chính hãng để quảng bá trà Nepal ra thị trường quốc tế. Thiết kế của LOGO mới bao gồm hai phần: Everest và văn bản. Đây là lần đầu tiên Nepal sử dụng LOGO thương hiệu thống nhất kể từ khi chè được trồng cách đây hơn 150 năm. Đây cũng là bước khởi đầu quan trọng để Nepal khẳng định vị thế của mình trên thị trường chè.
Thời gian đăng: Nov-04-2021